ĐẢNG BỘ XÃ HÙNG THÀNH NGHIÊN CỨU, HỌC TẬP NQ HỘI NGHỊ LẦN THỨ 8 KHÓA XIII
Tại hội nghị, đồng chí Lê Đình Hùng Bí - thư đảng
ủy, Báo cáo viên xã đã báo cáo các chuyên đề: Nghị quyết số 42-NQ/TW, ngày 24/11/2023 về “ Tiếp tục đổi mới,
nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ tổ quốc trong giai đoạn mới”; Nghị quyết số 43-NQ/TW, ngày 24/11/2023 về “
Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, xây dựng đất nước
ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”; Nghị quyết số 44-NQ/TW “tiếp
tục xây dựng và phát triển vai trò của đội ngủ tri thức yêu cầu phát triển đất
nước nhanh và bền vững trong tình hình mới”; Nghị
quyết số 45-NQ/TW, ngày 24/11/2023 về “ Tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của
đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong
giai đoạn mới” và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII về “ Chiến lược bảo
vệ tổ quốc trong tình hình mới”.
Nghị quyết số 42-NQ/TW: nêu rõ quan điểm, chính sách xã hội là chính
sách chăm lo cho con người, vì con người, lấy con người làm trung tâm, là chủ
thể, mục tiêu, động lực, nguồn lực để phát triển bền vững đất nước; là nhiệm vụ
thường xuyên, quan trọng của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn xã hội;
thể hiện đặc trưng, bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa; tăng trưởng
kinh tế gắn với bảo đảm chính sách xã hội; tạo điều kiện để Nhân dân được thụ
hưởng thành quả của sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước, nâng cao chất lượng
cuộc sống, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc...”.
Bên cạnh việc phân tích, làm rõ mục tiêu tổng quát, chỉ tiêu chủ yếu
đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 cùng 09 nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để thực
hiện việc “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu
cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới”, Thủ tướng Chính
phủ Phạm Minh Chính đã nêu bật điểm mới của Nghị quyết số 42-NQ/TW. Theo đó,
Nghị quyết số 42-NQ/TW chuyển đổi cách tiếp cận từ “đảm bảo và ổn định” sang “ổn
định và phát triển”; kết hợp hài hòa giữa tiếp tục đảm bảo an sinh xã hội và
các chính sách xã hội khác để phát triển ổn định xã hội; đồng thời tập trung
phát triển tiến bộ xã hội thông qua phát triển con người, phát triển nguồn nhân
lực, phát triển tầng lớp trung lưu gắn với quản lí xã hội bền vững và làm động
lực phát triển kinh tế, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết số
42-NQ/TW cũng mở rộng phạm vi ra toàn bộ các nhóm chính sách xã hội cho tất cả
các đối tượng trên nguyên tắc bảo đảm tính toàn dân, toàn diện.
Nghị quyết số 43-NQ/TW: cũng khẳng định mục tiêu tiếp tục phát huy
truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường đồng thuận xã hội,
khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, niềm tin, khát vọng
cống hiến và xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc; góp phần thực hiện
thành công mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam là nước đang phát triển, có công
nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, trở thành nước phát triển,
thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
NQ 43 đã nêu rỏ 07 nhiệm vụ,
giải pháp chủ yếu để tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
Nghị quyết số 44-NQ/TW: tiếp tục xây dựng và phát triển vai trò của đội
ngủ tri thức yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong tình hình mới.
Thực
hiện phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến”, trong đó lợi ích quốc gia – dân
tộc là bất biến; kiên định về nguyên tắc, mục tiêu chiến lược, linh hoạt về
sách lược. Không tham gia liên minh quân sự, không liên kết với nước này để
chống nước kia, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ
Việt Nam để chống lại nước khác, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ
lực trong quan hệ quốc tế.
Bảo vệ đất nước
từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy; chủ động phòng ngừa; ngăn ngừa
nguy cơ xung đột, chiến tranh, làm thất bại âm mưu và hoạt động “diễn biến
hòa bình” của các thế lực thù địch.
Nắm chắc tình
hình, phát hiện sớm, xử lý kịp thời, hiệu quả những yếu tố bất lợi, nguy
cơ gây đột biến, thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống từ cơ sở.
NQ 44 đã nêu rỏ 06 nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu; Tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị,
tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, sức
chiến đấu của Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước; Tăng cường sức mạnh đại đoàn kết dân
tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc; Về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển đất nước nhanh, toàn diện, bền
vững; kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường quốc phòng,
an ninh; Về xây dựng và phát
huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc; Tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa; Triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả hoạt động đối
ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng
Nghị
quyết số 45-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về “Tiếp tục
xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển
đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới” và hướng dẫn triển khai thực
hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII, Đ/c Bí thư đã nhấn mạnh về quan điểm được thể hiện trong
nghị quyết. Đội ngũ trí thức là nguồn lực đặc biệt trong phát triển kinh tế tri
thức, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; là nhân tố quan trọng trong nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, nâng tầm trí tuệ và sức mạnh
dân tộc, đóng góp to lớn cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xây
dựng đội ngũ trí thức vững mạnh toàn diện là đầu tư cho xây dựng, bồi đắp
“nguyên khí quốc gia” và phát triển bền vững là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước,
hệ thống chính trị và xã hội.
Bí thư đã làm rõ 05 nhóm
nhiệm vụ, giải pháp nhằm hiện thực hóa mục tiêu mà Nghị quyết số 45-NQ/TW đề
ra. Đó là đến năm 2030, phát triển đội ngũ trí thức về số lượng và chất lượng,
nhất là đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành trong lĩnh vực then chốt, trọng
yếu, lĩnh vực mới đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đến
năm 2045, đội ngũ trí thức Việt Nam lớn mạnh, có chất lượng cao, cơ cấu hợp lí,
thuộc tốp đầu khu vực và tiệm cận với các nước phát triển; nhiều nhà khoa học
có ảnh hưởng trên thế giới, đạt các giải thưởng quốc tế trên các lĩnh vực; nhiều
tổ chức khoa học và công nghệ, cơ sở giáo dục và đào tạo đạt chuẩn quốc tế đáp ứng
yêu cầu của quốc gia phát triển.